Trong hơn 6 tháng qua, các dược sĩ luôn nhận được các câu hỏi về việc sử dụng các chất bổ sung, thuốc không kê đơn và thuốc kê đơn trong cuộc chiến chống lại virus SARS-Cov-2. Trong khi phương pháp giảm nguy cơ hiệu quả nhất là giữ khoảng cách 2m, đeo khẩu trang và rửa tay thường xuyên và kỹ lưỡng. Một vài nghiên cứu chỉ ra rằng, một số chất bổ sung và thuốc OTC phổ biến có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng hoặc giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng.

Trường EVMS (The Eastern Virginia Medical School) và các tổ chức chăm sóc sức khỏe khác đã kết hợp một loạt các tác nhân sẵn có vào quy trình quản lý của họ đối với COVID-19, trong khi dữ liệu cho các kết hợp này thì rất hạn chế.

Để dự phòng, EVMS khuyến nghị dùng vitamin C (500 mg) và quercetin (250 mg-500 mg hai lần một ngày) cùng với kẽm (75 mg-100 mg mỗi ngày), melatonin (0,3 mg-2 mg) mỗi đêm và vitamin D3 (1.000-4.000 IU mỗi ngày). Famotidine (20 mg-40 mg mỗi ngày) có thể được thêm vào hỗn hợp. Đối với những bệnh nhân có các triệu chứng nhẹ, EVMS khuyến nghị kết hợp tương tự, với việc bổ sung tùy chọn ivermectin (150 ug-200 ug mỗi kg như một liều duy nhất) và một aspirin liều thấp hoặc thông thường mỗi ngày.

Suy nghĩ đằng sau việc đề xuất các chất bổ sung và thuốc này là gì?

Vitamin C rất quan trọng đối với hoạt động bình thường của các tế bào miễn dịch. Nó cũng là một chất chống oxy hóa mạnh giúp bảo vệ cơ thể khỏi stress oxy hóa do các gốc tự do gây ra, có liên quan đến một số bệnh. Vitamin C đã được sử dụng trong nhiều năm để giảm các triệu chứng của cảm lạnh, khoảng 1/4 trong số đó là do các coronavirus khác gây ra, và một phân tích tổng hợp các nghiên cứu thu nhận hơn 11.000 bệnh nhân cho thấy nó cũng làm giảm nguy cơ mắc cảm lạnh. Có lẽ bằng chứng trực tiếp nhất cho việc sử dụng vitamin C trong COVID-19 là một nghiên cứu được công bố vào tháng 2 năm nay chứng minh rằng nó làm giảm các triệu chứng ở bệnh nhân nhiễm trùng huyết và hội chứng suy hô hấp cấp tính do các vi rút khác gây ra.
Quercetin đã cho thấy lợi ích tiền lâm sàng như một loại thuốc kháng vi-rút, và một nghiên cứu của Trung Quốc cho thấy nó liên kết với protein đột biến trong coronavirus mới, làm giảm khả năng lây nhiễm các tế bào. Giống như vitamin C, nó có tác dụng chống oxy hóa. Mặt khác, nó không cho thấy sự ổn định hoặc hiệu lực đáng kể trong các thí nghiệm.
Kẽm cần thiết cho sự phát triển tế bào miễn dịch và một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nó làm giảm nguy cơ mắc các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp. Nó cũng có thể làm giảm số ngày ai đó bị cảm lạnh hoặc nhiễm trùng đường hô hấp khác. Khoảng 30% người Mỹ trưởng thành bị thiếu khoáng chất, vì vậy dù sao thì việc dùng một lượng vừa phải chất bổ sung có thể hữu ích.
Melatonin được biết đến nhiều nhất và được sử dụng phổ biến nhất để tăng cường giấc ngủ và giảm lo lắng, cả hai đều cải thiện hệ thống miễn dịch. Nó cũng ngăn chặn hoạt động của vi khuẩn gây viêm, giảm viêm trong phổi và giảm nguy cơ xơ hóa, một trong những biến chứng khó khăn nhất đối với những bệnh nhân đã từng bị COVID-19. 
Bằng chứng về vitamin D3 là hỗn hợp. Mặt khác, một số nghiên cứu trong thời kỳ đầu của đại dịch đã phát hiện ra rằng các quốc gia có dân số có lượng vitamin D trung bình thấp có nhiều khả năng bùng phát dịch nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong cao hơn. Các nghiên cứu quan sát khác cho thấy những người bị thiếu vitamin D có nhiều khả năng phải nhập viện ở Mỹ hơn, nhưng các yếu tố gây nhiễu cũng có thể giải thích một số sự khác biệt.

Trong các nghiên cứu ở Mỹ, lượng vitamin D thấp có liên quan đến những bệnh nhân sống trong viện dưỡng lão và những bệnh nhân người Mỹ gốc Phi. Cả hai nhóm cũng có các yếu tố nguy cơ đáng chú ý khác đối với COVID-19. Theo Thomas Carpenter, MD, một bác sĩ nội tiết tại Yale Medicine, “thiếu hụt vitamin D cũng liên quan đến bệnh hen suyễn và các rối loạn hô hấp khác”. Tuy nhiên, dư thừa vitamin D có thể kích thích hệ thống miễn dịch, điều này có thể gây hại cho COVID-19. Ngoài ra, quá nhiều vitamin D có thể gây độc cho tim và thận.

Famotidine có sẵn OTC dưới dạng Pepcid và như bạn có thể đã trải nghiệm, nó đã bị thiếu hụt ở nhiều nơi trong nước kể từ khi một bản tin tháng 4 cho biết rằng nó làm giảm nguy cơ tử vong hoặc sử dụng máy thở ở bệnh nhân nhập viện với COVID-19. Một loạt trường hợp tiếp theo được công bố vào tháng 6 cho thấy 10 người kiểm soát bệnh tại nhà được cải thiện trong vòng vài ngày sau khi dùng famotidine. Kết quả của một thử nghiệm lâm sàng lớn  trên bệnh nhân nhập viện vẫn chưa được công bố, và lý do chính xác tại sao thuốc có tác dụng vẫn chưa rõ ràng.
Aspirin làm giảm các triệu chứng sốt và đau nhức liên quan đến COVID-19. Nó cũng có thể làm giảm nguy cơ hình thành cục máu đông, vốn đã nổi lên như một vấn đề nghiêm trọng trong COVID-19. Có tới 70% bệnh nhân nhập viện do coronavirus mới gặp phải tình trạng tăng đông máu, và khoảng 25% bệnh nhân nhập viện ICU mắc bệnh phát triển thuyên tắc phổi. Ngày càng có nhiều báo cáo chỉ ra rằng đột quỵ là một triệu chứng phổ biến - và đôi khi là biểu hiện - của COVID-19.

Do đó, nhiều bệnh viện đưa tất cả các bệnh nhân nhập viện mắc bệnh vào thuốc làm loãng máu. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tất cả những người xuất hiện các triệu chứng đều nên dùng aspirin. Trẻ em và thanh thiếu niên nên tránh dùng aspirin vì nguy cơ mắc hội chứng Reye, và những bệnh nhân có vấn đề về chảy máu cũng không nên dùng.
Thuốc ivermectin chống ký sinh trùng cần có đơn thuốc.
Bất kỳ bệnh nhân nào tin rằng họ có COVID-19 nên được xét nghiệm và tham khảo ý kiến của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc chính về các bước chăm sóc tiếp theo, nếu họ có kết quả dương tính.

 

Nguồn: uspharmacist

Nội dung trong bài viết này chỉ dành cho mục đích thông tin. Nội dung không nhằm mục đích thay thế cho lời khuyên chuyên nghiệp. Việc phụ thuộc vào bất kỳ thông tin nào được cung cấp trong bài viết này là hoàn toàn tự chịu rủi ro của bạn.